Chương 5
KỸ THUẬT CANH TÁC SẮN HIỆU QUẢ
5.1 Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh sắn .
5.2 Quy trình kỹ thuật sản xuất sắn cho vùng Daklak .
5.3 Quy trình kỹ thuật sản xuất sắn cho vùng Đông Nam Bộ
5.3 Quy trình kỹ thuật nhân dòng bố mẹ sắn lai
5.4 VietGAP sắn .
5.1 Mười biện pháp kỹ thuật thâm canh sắn
5.1.1 Xác định đúng thời vụ trồng sắn
Sắn là cây trồng của vùng nhiệt đới ẩm. Sắn cần ánh sáng ngày ngắn để tạo củ. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho sắn từ 23-27oC. Lượng mưa trung bình năm thích hợp đối với sắn trong khoảng 1000 –2000 mm. Thời vụ trồng sắn tùy thuộc nông lịch cụ thể của từng địa phương. Các giống sắn công nghiệp trồng để lấy bột thường thu hoạch 8-12 tháng sau trồng. Các giống sắn ngọt trồng để ăn tươi thì có thể thu hoạch rãi rác từ 6- 9 tháng.
Ở nước ta, sắn được trồng ở tất cả các vùng sinh thái với những điều kiện tự nhiên rất khác biệt. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên cũng dẫn đến sự thay đổi về thời gian trồng sắn thích hợp chỉ mỗi vùng (Hình 5.1). Thường sắn được trồng vào đầu mùa mưa cuối mùa khô,. Tùy từng vùng mà thời gian trồng sắn có thay đổi trong khoảng từ tháng 2 tới tháng 5 dương lịch. Trong khoảng này, nếu trồng sớm thì cây sắn dễ gặp mưa rét (ở miền Bắc) hoặc khô hạn (ở các tỉnh phia Nam).
Vùng núi , trung du phía Bắc và vùng đồng bằng sông Hồng, sắn thường trồng trong tháng 2, đầu tháng 3 lúc có mưa xuân ẩm, trời bắt đầu ấm, thích hợp cho cây sinh trưởng, hình thành và phát triển củ. Trồng muộn vào tháng 4, trời đã nóng, cây sinh trưởng mạnh nhưng không đủ thời gian cho củ phát triển tối đa.
Vùng Bắc Trung Bộ, tháng 1 thích hợp nhất cho việc trồng sắn. Trồng sớm dễ gặp mưa lớn thối hom chết mầm, còn trồng muộn sắn non gắp khô rét sẽ sinh trưởng kém
Vùng Nam Trung Bộ, sắn có thể trồng trong khoảng tháng 1-3, trong điều kiện nhiệt độ tương đối cao và thường có mưa đủ ẩm. Một số nơi bà con có thể trồng sớm 1-2 tháng nhưng cùng thu hoạch vào tháng 9 tháng 10 mùa mưa lũ.
Hình 5.1 Nhiệt độ, lượng mưa và thời vụ trồng sắn ở Việt Nam
(Hoàng Kim, Phạm Văn Biên 1996)
Vùng Tây nguyên, Đông Nam Bộ và một số chân đất cao của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), sắn trồng chủ yếu vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa (tháng 4 - tháng 5) trong điều kiện nhiệt độ cao ổn định và có mưa đều. Một số nơi nông dân còn tiếp tục trồng cho đến tháng 6 tháng 7. Những nơi có điều kiện chủ động nước ở ĐBSCL, sắn thường trồng ngay từ đầu năm để kịp thu hoạch trước mùa lũ.
Chương trình sắn Việt Nam hiện đang tập trung mở rộng các giống sắn KM94, KM98-1, KM98-5 và KM140. Đây là những giống sắn tốt được nông dân chấp nhận và phát triển rộng trong sản xuất. Giống sắn chủ lực chính vụ là KM94, giống sắn ngắn ngày rãi vụ là KM98-5, KM98-1, giống sắn mới khảo nghiệm rộng là KM140 (Bảng 5.1).
Bảng 5.1 Đặc điểm của một số giống sắn mới có năng suất bột cao
5.1.3 Đất sắn và kỹ thuật làm đất thích hợp
Đất trồng sắn thích hợp nhất là đất tơi xốp, giữ và thoát nước tốt. Sắn trồng trên đất cát pha, củ có nhiều tinh bột và ăn ngon. Sắn đạt năng suất cao nhất ở đất có tưới, sa cấu đất trung bình, hàm lượng dinh dưỡng cao. Sắn không kén đất thích hợp với nhiều loại đất trồng, sắn có thể trồng trong một phạm vi biến động lớn của đất từ cát nhẹ đến sét nặng, pH từ 3,5 đến 7,8, ngoại trừ đất úng nước hoặc đất có hàm lượng muối cao. Do sắn phổ biến được trồng ở nhữnng loại đất nghèo dinh dưỡng, bị xói mòn và rửa trôi nên thâm canh sắn cần rất chú trọng để đất không bị nghèo kiệt.
Biện pháp cày bừa thích họp từng loại đất. Đối với đất cát, tầng canh tác mỏng, hàm lượng mùn thấp, không nên cày sâu làm đảo lớp đất cái (đế cày) lên trên mặt. Trên đất xám, đất feralit, đất phù sa cày sâu 25-30 cm cho năng suất cao hơn rõ rệt so với cày sâu 15-20cm. Đất sắn được cày 1-2 lượt và bừa 1-2 lượt tùy loại đất. Ở một số vùng đồi có thể cuốc hốc đặt hom .
Đặc điểm đất trồng sắn Việt Nam thường bị xói mòn, rửa trôi mạnh nên rất cần ứng dụng các biện pháp chống xói mòn trên đất dốc Vùng gò đồi cần trồng theo đường đồng mức thiết kế bằng thước chữ A. Đỉnh đồi trồng cây che phủ lâu năm như các cây ăn quả, cây lâm nghiệp. Băng chống xói mòn là cỏ vertiver, dứa, cốt khí, cỏ Paspallum hay các cây họ đậu thân bụi.
5.1.4 Hom giống sắn và kỹ thuật trồng
Hom giống tốt là rất quan trọng để giúp sắn nảy mầm đều, sinh trưởng khoẻ và cho năng suất cao. Lúc thu hoạch cần chọn những cây sắn đúng giống, tươi, không xây xát, không sâu bệnh, nhặt mắt, đặc lõi, đường kính thân 1,8 – 2,2 cm để làm giống cho vụ sau. Cây giống được bó thành từng bó 20 cây, dựng đứng ở nơi giâm mát, tủ rơm rạ, lấp đất quanh gốc 10-15 cm và tưới gốc giữ ẩm. Thời gian bảo quản giống không quá 2,5 tháng. Cây sắn trước khi trồng được cắt thành những đoạn hom dài 18-20 cm với 7-8 mắt. Nên dùng cưa máy cắt các bó hom để tiện vận chuyển và dùng dao sắc để chặt hom.
Các tỉnh phía Bắc và vùng ven biển miền Trung, nông dân thường cắm hom xiên (đặt hom nghiêng so với mặt đất khoảng 30o) hoặc hom đứng để giúp cho cây mọc mầm nhanh, khoẻ, giữ ẩm và ít đổ ngã. Vùng Đông Nam Bộ và vùng Tây Nguyên, phần lớn nông dân đặt hom nằm ngang để giảm công trồng và dễ thu hoạch. Khi đặt hom chú ý không để hom chạm vào phân khoáng hoặc phân chuồng tươi chưa hoai mục sẽ làm hom bị hư hại do ngộ độc, mất nước, nhiễm bệnh. Cắm hom cần hướng mầm cây lên trên và nghiêng cùng chiều để cây sinh trưởng tốt, tiện chăm sóc và thu hoạch .
5.1.5 Dinh dưỡng khóang và bón phân cho sắn
Sắn có yêu cầu khá cao về các chất dinh dưỡng. Chất dinh dưỡng quan trọng nhất đối với sắn là kali, kế đến là đạm, lân, canxi và manhê. Thông thường, cây sắn cần lượng dinh dưỡng 150 kg K2O + 150 kg N + 30 kg P2O5 để đạt năng suất củ tươi 30 tấn/ ha (R.H. Howeler 2001). Sắn hút kali mạnh ngay từ đầu, tháng thứ hai sắn đã hút kali gấp 10 lần so với tháng thứ nhất, tháng thứ ba gấp ba lần so với tháng thứ hai, trước lúc thu hoạch lượng kali được hút gấp 2,5 lần tổng lượng đạm và lân. Nhu cầu về đạm tháng thứ hai gấp rưỡi nhu cầu đạm của tháng thứ nhất, tháng thứ ba gấp bốn lần của tháng thứ hai, tháng thứ tư gấp rưỡi của tháng thứ ba, lượng đạm hút được nhiều nhất vào các tháng thứ 8, thứ 10 nhưng tốc độ hút đạm chậm lại. Lân được cây hút đều trong suốt quá trình sinh trưởng. Cây hút lượng can xi nhiều gấp đôi lượng lân và lượng manhê bằng một phần ba lượng can xi. Việc bón phân khoáng cân đối, hiệu qủa đi đôi với việc tăng cường bón phân hữu cơ vi sinh và sử dụng cây họ đậu trong các hệ thống luân xen canh với sắn là giải pháp cơ bản để tăng năng suất sắn .
Đất sắn Việt Nam hầu hết đều nghèo dinh dưỡng và ít được cung cấp phân bón. Kết luận của Hội thảo sắn Việt Nam lần thứ 10 năm 2001 là cây sắn nước ta cần được đầu tư tối thiểu ở mức 40 N + 40 P2O5 + 80 K2O (tương ứng 87 Urea + 200 Supelân + 160 KCl kg/ ha), ở ruộng thâm canh cần ứng dụng 60 - 120 N + 40 P2O5 + 120 - 160 K2O (tương ứng 130- 260 Urea + 200 Supelân + 240 - 320 KCl kg/ ha).
Cách bón:
+ Bón lót toàn bộ phân hữu cơ và phân lân khi trồng
+ Bón thúc lần 1 (15-20 ngày sau trồng): 1/3 lượng đạm + 1/3 lượng phân kali kết hợp với làm cỏ.
+ Bón thúc lần 2 (35-40 ngày sau trồng): 1/3 lượng đạm + 1/3 lượng phân kali kết hợp với làm cỏ.
+ Bón thúc lần 3 (60- 70 ngày sau trồng):1/3 lượng đạm + 1/3 lượng phân kali kết hợp với làm cỏ.
5.1.6 Khoảng cách và mật độ trồng
Khoảng cách và mật độ trồng sắn tuỳ theo đất với nguyên tắc chung là “đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày”.
Đất tốt: Khoảng cách trồng 1,20 m x 0,80 m, mật độ 10.417 cây/ha.
Đất trung bình: Khoảng cách trồng 1,00 m x 0,80 m, mật độ 12.500 cây/ha
Đất nghèo: Khoảng cách trồng 1,00 m x 0,70 m, mật độ 16.286 cây/ha
Khoảng cách trồng 0,80 m x 0,80 m, mật độ 15.620 cây/ha
Đất tốt: xen một hàng ngô lai giữa hàng sắn, khoảng cách xen 1,20m x 0,40m x 1 cây. Đất trung bình: xen hai hàng đậu xanh hoặc lạc giữa hai hàng sắn, khoảng cách xen 0,40 m x 0,15m x 2 cây/hốc.
Làm cỏ kịp thời ba lần vào lúc 20, 40 và 70 ngày sau khi trồng kết hợp bón phân. Thường sắn mọc đều trong khoảng 2-3 tuần tuỳ thuộc chất lượng hom giống, đất đai và thời tiết. Cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng với cây sắn rất lớn nên việc làm cỏ xáo xới là rất quan trọng để bảo đảm sắn đạt năng suất cao.
Làm cỏ bón phân lần đầu nên thực hiện ngay sau khi cây mọc đều để sắn sinh trưởng khoẻ và giao tán sớm. Làm cỏ bón phân lần hai giúp cây hình thành và phát triển củ. Làm cỏ bón phân lần cuối sau trồng 2,5-3,0 tháng giúp sắn sẽ khép tán tốt và hạn chế cỏ dại. Sử dụng thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm Duan với lượng dùng là 2,5 lít/ ha đạt năng suất sắn củ tươi và hiệu qủa kinh tế cao, được nhiều nông dân lựa chọn.
Sâu hại chưa gây thành dịch trên cây sắn Việt Nam. Một số sâu hại chính thường gặp là: Sâu ăn tạp (Spodoptera litura F) xuất hiện rải rác, ăn lá non và mầm sắn mới trồng gây mất khoảng, giảm mật độ; Sâu xanh (Chloridae obsoleta F) cũng loại sâu đa thực, chủ yếu ăn lá sắn non, phá hại rãi rác, gặm khuyết lá sắn; Sâu ăn lá (Tiracola plagiata walk) chủ yếu ăn lá sắn, là trơ cành lá sắn; Nhện (Tetranychus sp) thường tập trung chích hút mặt dưới lá sắn làm lá khô, bạc màu nhất làm mặt lá loang lỗ. Cách phòng trừ sâu hại chủ yếu là thực hiện các biện pháp kỹ thuật thâm canh sắn để cây sinh trưởng phát triển khoẻ, thường xuyên thăm ruộng phát hiện sâu hại kịp thời và sử dụng thuốc trừ sâu phù hợp hiện có bán rộng rãi trên thị trường nhưng chỉ áp dụng khi thật cần thiết.
Bệnh hại sắn ở Việt Nam là khá phổ biến nhưng cũng chưa gây thành dịch, thường gặp nhất là bệnh héo vi khuẩn (Xanthomonas campestris pv.manihotis), vết bệnh xuất hiện dưới dạng những vết nâu trên lá và những quầng vàng, sau đó lan rộng làm lá héo rụng; kế đến là bệnh đốm lá (Cercospora spp) vết bệnh xuất hiện ở cả hai mặt lá, khi bệnh nặng làm lá vàng khô và rụng, bệnh gây hại nặng trong mùa mưa; Bệnh thán thư (Colletotrichum spp) gây thành những vết màu nâu đỏ trên lá sắn, xung quanh vết bệnh có viền vàng nhạt, khi bệnh hại nặng làm lá khô chết; Các loại nấm gây thối củ, hại ở mức độ nhẹ, thường gặp là Phytphthora spp, Fusarium spp, Diplodia manihotis; Các loại bệnh do virus, tuy nhiên các bệnh này cũng ít xuất hiện và chưa gây thành dịch hại trên các vùng trồng sắn Việt Nam.
5.1.10 Thu hoạch củ và bảo quản cây giống
Thời gian thu hoạch sắn thích hợp trong khoảng 8-11 tháng sau trồng (tùy giống). Thu hoạch xong phải vận chuyển ngay đến cơ sở chế biến, tránh phơi nắng lâu ngoài đồng sẽ giảm chất lượng bột.
.
5.2 Quy trình kỹ thuật sản xuất sắn thuần
5.3 Quy trình kỹ thuật nhân dòng bố mẹ sắn lai
5.4 VietGAP sắn
CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
No comments:
Post a Comment